1. Giai đoạn thứ nhất (1987-1992)
Trung tâm nghiên cứu khoa học về phụ nữ đã được thành lập vào ngày 3 tháng 3 năm 1987, do GS. Lê Thi làm Giám đốc dựa trên hoạt động của tổ chức tiền thân là Tổ Phụ nữ tại Viện Triết học trong thời kỳ 1985-1987. Đây là một Trung tâm đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về phụ nữ. Sự thành lập của Trung tâm đã đánh dấu về mặt thể chế sự ra đời của một chuyên ngành khoa học mới ở Việt Nam là Nghiên cứu về phụ nữ. Đồng thời, Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Phụ nữ ra đời đã đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của phụ nữ giai đoạn sau Thập kỷ quốc tế phụ nữ và phù hợp với xu thế Đổi mới, mở cửa của đất nước cuối những năm 80 thế kỷ XX.
Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Phụ nữ là đề ra các chương trình nghiên cứu ngắn hạn và dài hạn về các vấn đề phụ nữ, trực tiếp thực hiện và tổ chức việc phối hợp thực hiện đề tài nghiên cứu, cung cấp cơ sở khoa học cho việc ban hành chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với phụ nữ, tiến hành việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và thực hiện hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học về phụ nữ.
Đây là thời kỳ của những bước đi ban đầu đầy khó khăn với đội ngũ cán bộ gồm 10 người. Cơ cấu tổ chức của Trung tâm gồm 3 bộ phận: bộ phận quản lý, bộ phận nghiên cứu, bộ phận phục vụ. Năm 1990, tạp chí “Khoa học và Phụ nữ” ra đời. Những thành tựu chính trong thời kỳ này là Trung tâm đã xác định đúng phương hướng hoạt động khoa học, triển khai các đề tài nghiên cứu, xây dựng tổ chức cơ quan, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để phát triển một bộ môn khoa học hết sức mới mẻ là Phụ nữ học. Từ đó, Trung tâm đã bước đầu khẳng định vị trí và vai trò của một cơ quan nghiên cứu khoa học.
Trong giai đoạn này, Trung tâm đã mở ra hàng loạt các đề tài nghiên cứu hướng về thực tiễn, đề cập đến các vấn đề nóng bỏng và cơ bản liên quan đến đời sống xã hội và cuộc sống của người phụ nữ. Các nghiên cứu đã quan tâm tìm hiểu tác động của công cuộc đổi mới đất nước đối với phụ nữ thông qua chính sách quản lý kinh tế, chính sách khoán 10,… Các chủ đề nghiên cứu đã chú ý toàn diện đến điều kiện lao động, đời sống vật chất, hưởng thụ văn hóa, đời sống gia đình của người phụ nữ. Đối tượng khảo sát chủ yếu là phụ nữ nông dân, đồng thời có quan tâm đến các tầng lớp phụ nữ khác như nữ công nhân, nữ trí thức, v.v…
Nghiên cứu về giới và tìm hiểu quan điểm giới được đặt ra vào đầu những năm 90 đã đặt nền móng cho việc triển khai các hướng nghiên cứu mới vào giai đoạn sau. Cùng với một số hoạt động đào tạo, hội thảo về giới, các nghiên cứu được Trung tâm triển khai trong giai đoạn này đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc vận dụng quan điểm giới trong nghiên cứu ở Việt Nam.
2. Giai đoạn thứ hai (1993-2003)
Năm 1993, Trung tâm nghiên cứu khoa học về Phụ nữ được đổi tên thành Trung tâm nghiên cứu khoa học về Gia đình và Phụ nữ theo Quyết định số 466/TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 13/9/1993. Trung tâm có chức năng nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và các chuyên đề do thực tiễn nước ta đặt ra về gia đình, về phụ nữ, về giới nhằm góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định chính sách, pháp luật đối với gia đình, phụ nữ và sự bình đẳng giới, đồng thời làm tư vấn cho các ngành, các cơ quan về những vấn đề có liên quan đến gia đình và phụ nữ.
Cơ cấu tổ chức của Trung tâm gồm 4 phòng nghiên cứu và các phòng chức năng-nghiệp vụ: phòng Thông tin – Tư liệu – Thư viện, phòng Hành chính – Tổ chức – Đối ngoại, Tòa soạn tạp chí “Khoa học về Phụ nữ” (Năm 1993, Tạp chí “Khoa học và Phụ nữ” được đổi tên thành “Khoa học về Phụ nữ”). Thời kỳ này, Trung tâm đã được bổ sung nhiều cán bộ trẻ. Công tác đào tạo được quan tâm hơn, nhiều cán bộ đã tham gia các chương trình đào tạo cao học ở trong nước và quốc tế.
Với chức năng, nhiệm vụ mới, Trung tâm tiếp tục triển khai ba hướng nghiên cứu chính là nghiên cứu về lao động, việc làm và đời sống phụ nữ, nghiên cứu các vấn đề về gia đình và nghiên cứu vấn đề giới. Các kết quả nghiên cứu đã góp phần làm rõ thực trạng các quan hệ giới, cơ cấu, chức năng và sự biến đổi của gia đình và chỉ ra các vấn đề cần quan tâm đối với việc thúc đẩy bình đẳng giới trong gia đình và xã hội. Thành tựu chính trong thời kỳ này là xây dựng hệ thống các đề tài khoa học, đa dạng hóa các chủ đề nghiên cứu, gắn nghiên cứu với việc cung cấp luận cứ xây dựng chính sách về gia đình và phụ nữ. Bên cạnh đó, các hoạt động tập huấn về giới và tham gia đào tạo chính quy cũng được tăng cường. Nhiều cán bộ đã tham gia tích cực vào các hoạt động đào tạo, góp phần nâng cao nhận thức và hiểu biết về giới nói chung cho các cán bộ thuộc các bộ, ngành cũng như người dân ở cộng đồng.
3. Giai đoạn thứ ba (từ 2004 đến nay)
Năm 2004, Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Gia đình và Phụ nữ tiếp tục được củng cố về tổ chức, được giao bổ sung nhiệm vụ mới và được đổi tên thành Viện Gia đình và Giới. Viện Gia đình và Giới có chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản những vấn đề lý luận và thực tiễn về giới, gia đình và phụ nữ của Việt Nam nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chính sách đối với sự bình đẳng giới, gia đình và phụ nữ; tham gia đào tạo, thực hiện tư vấn về những vấn đề liên quan đến giới, gia đình và phụ nữ. Năm 2009, Viện Gia đình và Giới đã xây dựng Đề án kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện theo quy định tại Nghị định 115/2005/NĐ-CP. Đề án được Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam phê duyệt ngày 8/7/2009, theo quyết định số 943/QĐ-KHXH.
Về tổ chức, các phòng nghiên cứu được sắp xếp lại với số lượng 5 phòng, bổ sung hướng nghiên cứu mới về trẻ em. Hướng kết hợp giữa nghiên cứu và tư vấn chính sách cũng đã được chính thức mở ra với việc thành lập Trung tâm tư vấn. Năm 2006, Tạp chí “Khoa học về phụ nữ” được đổi tên thành “Nghiên cứu Gia đình và Giới”. Cũng từ năm 2006, Tạp chí tiếng Anh của Viện “Vietnam Journal of Family and Gender Studies” chính thức xuất bản hàng năm, góp phần giới thiệu với bạn đọc nước ngoài công trình của các nhà nghiên cứu Việt Nam về lĩnh vực gia đình và giới.
Việc nghiên cứu phụ nữ được thực hiện cùng với hướng nghiên cứu về giới là một bước phát triển mới, kịp thời và đúng đắn của Viện. Giai đoạn này, các vấn đề xã hội bức thiết như lao động trẻ em, lạm dụng tình dục trẻ em, sức khỏe sinh sản vị thành niên, tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, phụ nữ lấy chồng nước ngoài,…được Viện kịp thời nghiên cứu để có những luận cứ khoa học phục vụ công tác hoạch định chính sách ở Việt Nam.
Thời gian này, bên cạnh việc triển khai nghiên cứu những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, Viện đã đẩy mạnh các nội dung lý luận trong nghiên cứu. Một số chủ đề chính đã thực hiện là: Lịch sử lý thuyết nữ quyền và lý thuyết giới; Một số quan điểm của lý thuyết nữ quyền trong nghiên cứu gia đình. Việc tăng cường nghiên cứu lý luận đã có tác động tích cực trong việc đào tạo cán bộ của Viện và nâng cao năng lực nghiên cứu của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về giới, phụ nữ và gia đình nói chung. Các nghiên cứu đã bước đầu kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tiễn, dùng thực tiễn để kiểm nghiệm lý thuyết, đồng thời cũng từ thực tiễn để khái quát hóa thành lý luận. Bên cạnh đó, việc kết hợp chặt chẽ các phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính góp phần nâng cao chất lượng các nghiên cứu về gia đình và giới. Các nghiên cứu đánh giá chính sách cũng được Viện chú trọng, như thực hiện “Điều tra cơ bản thực trạng bình đẳng giới và tác động của chính sách đối với phụ nữ và nam giới nhằm phục vụ công tác hoạch định chính sách ở Việt Nam” (2005-2006); Phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước tiến hành đánh giá năng lực thực hiện Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình (2009) và đánh giá việc thực hiện Quyết định 19/2004/QĐ-TTg ngày 12/2/2004 về Ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục và trẻ em lao động nặng nhọc trong điều kiện độc hại và nguy hiểm (2009) .v.v.
Đến nay, đội ngũ cán bộ của Viện đã tăng lên đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Thông qua việc nghiên cứu, trao đổi và mở rộng hợp tác với các cơ quan bên ngoài, kết hợp với các khoá tập huấn trong và ngoài nước kiến thức chuyên môn về vấn đề giới, phụ nữ và gia đình và kỹ năng của cán bộ về phân tích, tổng hợp, xử lý số liệu đã được nâng cao và phát huy tích cực trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và tư vấn phát triển. Nét nổi bật và xuyên suốt trong các nghiên cứu của Viện là tính chất liên ngành. Các cán bộ của Viện được đào tạo từ những chuyên ngành khác nhau đã cùng các nhà khoa học ở các chuyên ngành khác hợp tác nghiên cứu những vấn đề cấp bách từ thực tiễn về phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới. Cách tiếp cận liên ngành cho phép phân tích toàn diện những vấn đề đã đặt ra và cung cấp những luận cứ kinh tế-xã hội xác đáng hơn phục vụ việc hoạch định chính sách của các cơ quan Đảng và Nhà nước.
Qua hành trình phát triển hơn 20 năm, Viện Gia đình và Giới đã khẳng định được vai trò là một trong những cơ quan nghiên cứu hàng đầu về phụ nữ, gia đình và giới ở Việt Nam, có mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn phát triển của đất nước. Các công trình nghiên cứu, các hoạt động tư vấn chính sách và phát triển đã góp phần nâng cao nhận thức của các nhà hoạch định chính sách cũng như cán bộ các cấp và người dân về các vấn đề phụ nữ, trẻ em, gia đình và giới đang đặt ra.